60. Chương 80 - John Bredemus

ADIGOLF DÙNG THỬ 7 NGÀY
60. Chương 80 - John Bredemus
Ngày đăng: 7 tháng trước

    80 - John Bredemus

    John Bredemus là một người thực sự phi thường và tôi rất tự hào nói rằng anh ấy là một người bạn của tôi. Những điều tôi biết về John chắc có thể nhiều người cũng biết. Anh là một người cô độc, sống đạm bạc trong căn nhà có nhiều sách hơn đồ đạc. Khi anh ấy qua đời vì một cơn đau tim ở Abilene vào năm 1946, gia đình của anh ấy không quan tâm gì đến anh ấy cả. John được an táng ở một khu vực được trả bằng chi phí công vì gia đình không mua mộ cho anh ấy. Murray Brooks, một “pro” tại Brackenridge Park, đã đồng ý nhận một bộ sưu tập từ các thành viên PGA Texas và đổi lại, Murray sẽ trang trải chi phí cho đám tang của John.

    Mọi người đến viếng và tò mò nhìn vào tài của John để xem liệu anh ấy có được chôn cùng với huy chương vàng của Jim Thorpe hay không. Từ năm 1913 cho đến khi qua đời, John chỉ được nhiều người biết đến với cái tên “người đàn ông đã nhận được huy chương vàng của Jim Thorpe”.

    ' John L. Berdemus là một vận động viên điền kinh, giáo viên, hiệu trưởng kỹ sư xây dựng và là thiết kế sân golf đầu tiên ở Mỹ. Ông sinh năm 1884 ở Flint, Michigan và mất năm 1946, lớn hơn Harvey 18 tuổi.

    Không ai tìm thấy những huy chương vàng đó. Nhưng tôi có thể là người duy nhất biết chuyện gì đã xảy ra.

    Nếu cuộc đời của John được quay thành phim, bạn sẽ cho rằng đó là phim và không có thật ở ngoài đời.

    Bố mẹ anh ấy là những người nhập cư từ Luxembourg đến Flint, Michigan vào năm 1884. John đi học ở South Bend, Indiana. Khi John được 10 tuổi thì cha anh ấy qua đời. Họ gửi John đến Học viện Phillips Exeter ở New Hampshire. Anh trở thành một học sinh danh dự và là đội trưởng của đội bóng đá ở đây.

    Sau một năm học Đại học Dartmouth, John bỏ học để chuẩn bị cho cuộc thi AAU National All-Around. Đây là sự kiện thi đấu 10 môn thể thao phối hợp, được tổ chức chỉ trong một ngày. John đã giành chức vô địch vào năm 1908 và được tạc tượng đặt ở ga Union, Washington.

    John chuyển đến Princeton sống, trở thành ngôi sao hậu vệ cánh của đội bóng ở đây và đã bị chấn thương, gãy mũi. Anh ấy tiếp tục học đại học và lấy bằng kỹ sư xây dựng vào năm 1912.

    Mùa hè năm đó, anh đến Celtic Park, Long Island, để bảo vệ chức vô địch AAU All-Around của mình trước Jim Thorpe, người vừa hoàn thành việc giành huy chương vàng ở nội dung 10 môn phối hợp và năm môn phối jot gruri hợp tại Thế vận hội Mùa Hè ở Stockholm.

    Trong thời tiết mưa và bùn tại cuộc thi AAU, John và Thorpe đều phá kỷ lục cũ, nhưng Thorpe thắng và hơn John 173 điểm. Vào tháng 1 năm 1913, Ủy ban Olympic và AAU buộc tội Thorpe vì anh ấy đã là một vận động viên chuyên nghiệp. (Vì anh đã chơi bóng chày bán chuyên ở Bắc Carolina vào năm 1909 và 1910)

    Cuộc tranh cãi về huy chương vàng của Thorpe vẫn kéo dài cho đến ngày nay. Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi người đã ước Thorpe vẫn được công nhận là thắng và được giữ huy chương.

    Thay vì trả huy chương vàng toàn năng AAU của Thorpe lại cho ủy ban, thì người ta đã trao lại cho John Bredemus. John chấp nhận, nhận các huy chương vàng và giữ chúng cho đến trước khi chết.

    Vào tháng 6 năm 1913, John được bổ nhiệm làm giám đốc thể thao tại Stamford Prep ở Connecticut. Anh ấy cũng làm thêm việc của nhân viên cứu hộ tại bãi biển Brighton. Mùa hè năm đó, anh ấy bắt đầu với môn golf tại sân Van Cortland Park- sân golf công cộng đầu tiên của Mỹ, được xây dựng ở Bronx - và đến năm 1914, anh ấy tham gia các giải thi đấu.

    ' Cuộc thi AAU National All-Around chỉ dành cho những người không chuyển. Những vận động viên chuyên nghiệp không được tham gia.

    Năm 1915, với bằng kỹ sư xây dựng, John làm việc cho một nhóm thiết kế và xây dựng sân golf Lido ở Long Island. Sau đó, anh ấy trở thành một trong những kiến trúc sư sân golf đầu tiên của đất nước này.

    PGA được thành lập vào năm 1916 trong  một cuộc họp tại Taplow Club ở New York. John là một trong những thành viên đầu tiên. Anh ấy đến Texas vào năm 1919, với mục đích là tìm kiếm một nơi có thể chơi golf quanh năm. Tại đây, anh ấy được thuê làm hiệu trưởng cho một trường trung học ở San Antonio.

    Sân golf công cộng đầu tiên của Texas và duy nhất vào thời điểm đó là Brackenridge Park ở San Antonio, nơi John thường xuyên chơi và không lâu sau đó anh ấy trở thành trợ lý giám đốc golf. Năm 1920, John được thuê để xây dựng sân San Felipe Springs, đây vẫn là một sân golf tuyệt vời ở Del Rio. Anh ấy là kiến trúc sư sân golf thực sự đầu tiên ở Texas. Trước đó, các lỗ golf đã được bố trí bởi các ủy ban hoặc bởi những người chơi, ví dụ như Lewis Hancock đã tự bố trí 9 lỗ đầu tiên của Câu lạc bộ Austin Country với bạn bè của mình. 

    Hầu hết các thông tin tôi viết ở trên là từ một người bạn của tôi, Francis Trimble, cô ấy được ghi tên ở Texas Golf Hall of Fame, Houston. Bây giờ tôi sẽ viết những điều mà chính tôi biết về John.

    Chính John là người đã đưa ra những bài học dạy golf đầu tiên ở Texas, tổ chức giải đấu đầu tiên ở Texas, xây dựng sân Corpus Christi Country vào năm 1923, và A2 viết những bài hướng dẫn chơi golf đầu tiên cho các tờ wolqst ist qorl báo ở Texas.

    Sự khen ngợi cho việc ấp ủ và tổ chức thành công giải Texas Open đầu tiên vào năm 1922 (Bob MacDonald ở San Antonio vô địch) thường được dành cho nhà báo viết về thể thao Jack O'Brien ở San Antonio. Nhưng chính John mới là thiên tài đằng sau nó. Những người chơi golf giỏi nhất trên thế giới đã hội tụ về Texas để tham gia giải đấu đó và bắt đầu một cuộc bùng nổ về phong trào chơi golf.

    Năm 1922, PGA Texas đã được thành lập với Willie Maguire, Giám đốc golf của Houston Country Club làm chủ tịch và John làm thư ký. John là người ủng hộ tổ chức giải “winter tour”. Ông đã có mặt tại giải Shreveport (La.) Open đầu tiên (1922), Texas Open đầu tiên (1922), Corpus Christi Open đầu tiên (1923), Houston Open đầu tiên (1924) và Dallas Open đầu tiên (1926).

    Năm 1927, John đã đưa được giải National PGA về tổ chức ở sân Cedar Crest, Dallas. Để chuẩn bị cho giải

    đấu, anh ấy đã thêm 40 bẫy cát vào sân cũ và kéo dài nó thêm hàng trăm yard.

    Các sân golf đang được xây dựng trên khắp tiểu bang, và tôi nghĩ John đã tham gia thiết kế khoảng 80% trong số đó.

    Chúng tôi đã thuê John làm kiến trúc sư thiết kế lại sân Austin Country y vào năm 1924 khi chuyển từ cát sang green cỏ. Mỗi tuần hoặc lâu hơn, anh ấy ghé qua giám sát việc xây dựng. Khi đó không có máy ủi. Chúng tôi đã thi công sân bằng những con la và những chiếc máy cạo đất lớn.

    Khi sân của chúng tôi chuyển đến Riverside Drive, tôi đã đen đề nghị John thiết kế nó. Anh ấy nói, “Harvey, hiện tại tôi đang thiết kế và giám sát thi công hai sân. Tôi không nghĩ rằng mình có thể đảm bảo được chất lượng công việc cho dự án của cậu nếu tôi nhận”. Sau đó, chúng tôi đã để Perry Maxwell thực hiện. Perry vừa phải phẫu thuật cắt cụt chân, và anh ấy phải đi vòng quanh sân để triển khai và giám sát thi công bằng chiếc chân giả. Perry đã xây dựng một số green có đường nét đẹp nhất tôi từng thấy.

    John có thói quen đi du lịch chỉ với một vài bộ quần áo, một túi đựng sách, một túi đựng gậy golf bằng vải với bảy gậy, một bàn cờ caro và một mớ caro. Mọi người thường thấy John đánh bại Titanic Thompson trong các trận đấu cờ ở Houston. John một mình bay khắp tiểu bang, không nói cho ai biết mình sẽ đi đâu hay đang làm gì, John đã xây dựng các sân golf mà không để lại thông tin hay tiếng tăm. Anh ấy không muốn nổi tiếng. Không ai biết anh ấy đã làm gì với số tiền kiếm được. Anh ấy không chi tiêu cho bản thân.

    Sân nổi tiếng nhất của John là Colonial Country Club ở Fort Worth, được xây dựng vào năm 1936. John đã sử dụng cỏ bent cho green ở San Angelo vào năm 1928 và Seguin vào năm 1935, nhưng khi ông sử dụng cỏ bent ở sân Colonial thì sân đó được biết đến như là sân đầu tiên sử dụng cỏ bent cho green o Texas.

    Trong quá trình John xây dựng sân Colonial, anh ấy muốn đốn hạ một cây sồi khổng lồ tên là Big Annie. Cây sồi này mọc gần phía trước green thứ 17. John thường chặt bất cứ cây nào nếu anh ấy nghĩ rằng việc đó giúp cải thiện quá trình lưu thông không khí hoặc ánh sáng mặt trời. Trong khi công nhân đang chuẩn bị đào quanh gốc thì Marvin Leonard, người đang đầu tư cho dự án, đã lái xe tận nơi để ngăn Big Annie bị chặt.

    Có người kể lại rằng John đã giận dỗi và Marvin Leonard đã sa thải anh ấy. Sự thật là John bị ốm, và anh ấy đã giao việc hoàn thành sân cho người được anh ấy bảo trợ, Ralph Plummer. John nói với tôi, “Tại sao tôi phải tranh luận với ông Leonard chứ. Ông ấy là người bỏ tiền ra thuê tôi làm mà”.

    Nhiều năm sau, một cơn bão đã phá hủy Big Annie.

    Tôi nghĩ Perry Maxwell đã được gọi đến để chỉnh trang cho sân Colonial trước giải U.S.Open năm 1941, nhưng sân là thiết kế của John.

    Một lần, John đưa tôi đến  công trường nơi anh ấy đang thi công 18 lỗ thứ hai tại sân Fort Worth’s Ridglea Country. Anh ấy nói, “Chỗ này sẽ là tee phát bóng và đằng kia là green đó Harvey”. Anh ấy có thể hình dung ra tất cả các lỗ trong đầu mình. Hình ảnh mà tôi còn có thể nhớ rõ ràng nhất là chúng tôi đi giữa cỏ cao ngang bụng và bị quá trời con mò bu lên người.

    John đã dạy tôi rằng, cần có con mắt của một nghệ sĩ để thiết kế sân golf, nhưng kỹ năng của một kỹ sư để xây dựng nó. John có cả hai.

    John đã thiết kế nhiều sân golf nổi tiếng ở Texas nhưng danh tiếng lại được công nhận cho những người khác, cũng như nhiều sân golf khác nghe nói là do anh ấy thiết kế, như Braeburn ở Houston, Offat's Bayou Galveston (đáng buồn là nó đã bị phá hủy để xây dựng một đường băng cho Không quân trong Thế chiến thứ hai), Memorial Park ở Houston (sân tốt nhất cả nước vào thời điểm đó), Hermann Park ở Houston, và nhiều nơi khác không thể đặt tên. Nếu những sân golf mà anh ấy không xây nên, rất có thể anh ấy đã đến sau đó và thay đổi nó - như khi anh ấy trồng cỏ thay cho cát tại sân Austin Country của chúng tôi.

    Vào một đêm nọ, khi anh ấy và tôi lái xe từ Louisiana về nhà trong cơn mưa, xe của chúng tôi bị mắc lầy ở Liberty, Texas. Loay hoay mãi không thoát được, John điên lên nhảy ra khỏi xe và hét lên, “Nếu đây là Liberty, hãy cho tôi chết!”.

    Về cuối đời, John là Giám đốc golf của sân Hermann Park ở Houston. Anh ấy thường đến thăm Jack Burkes ở sân River Oaks, ngồi dưới những tán cây và chơi cờ caro với các hội viên. Nhưng John không vào clubhouse. Anh ấy nói rằng anh ấy cảm thấy mình lạc lõng khi đứng giữa những người trong đó.

    Tôi hỏi John môn thể thao yêu thích của anh ấy là gì trong tất cả các môn anh ấy chơi khi còn trẻ.

    Anh ấy nói, “Harvey, trò vui nhất mà tôi từng chơi là nhảy bám những chiếc xe chở hàng ở quê để đi ké một đoạn và vẫy tay chào mọi người khi tôi đi qua”.

    Không lâu trước khi chết, John cho tôi xem những huy chương vàng của Jim Thorpe. Anh ấy cất chúng trong một cái hộp xì gà.

    “Cậu có biết, tôi dự định sẽ làm gì với những thứ này không?”, anh ấy hỏi tôi.

    “Dạ không. Làm gì vậy anh?”.

    “Tôi nghĩ tôi sẽ nấu chảy chúng”, anh ấy nói.

    Đó là những gì tôi nghĩ đã xảy ra với huy chương vàng của Jim Thorpe.

    ĐỐI TÁC THƯƠNG HIỆU
    0
    Zalo
    Hotline