67. Giá trị của cú Distance wedge

ADIGOLF DÙNG THỬ 7 NGÀY
67. Giá trị của cú Distance wedge
Ngày đăng: 7 tháng trước

    GIÁ TRỊ CỦA CÚ DISTANCE WEDGE

    Các cú đánh distance wedge đại diện cho một cơ hội rất lớn khi nói đến việc ghi điểm. Khi bạn xem xét tỷ lệ thành công của cú putt được thống kê theo phạm vi khoảng cách trên green, sẽ có các phạm vi khoảng cách mà tỷ lệ thành công của cú putt tương đối bằng nhau. Nếu hiện tại bạn thường có một cú putt trung bình 30 feet sau một cú distance wedge và nếu cho dù bạn chăm chỉ cải thiện mức trung bình này lên 25 feet, thì có khả năng điểm số của bạn sẽ không thay đổi, mặc dù bạn đã cải thiện độ chính xác của cú distance wedge gần 17%. Tại sao? Bởi vì ở hai khoảng cách đó tỷ lệ thành công của cú putt là bằng nhau. Tất nhiên, không phải lúc nào tất cả các cú distance wedge mà bạn đánh đều đạt khoảng cách trung bình, có thể ngắn hơn, bằng hoặc dài hơn. Mặc dù chỉ số “khoảng cách trung bình” được sử dụng để xếp hạng khả năng chơi gậy wedge của golfer PGA Tour, nhưng nó không đo lường mức độ ảnh hưởng thực sự của những cú đánh này đến điểm số. Một chỉ số đo lường kỹ năng tốt hơn đó là tỷ lệ các cú đánh tuyệt vời bằng gậy wedge giúp cho golfer vượt qua đối thủ cạnh tranh cũng như là tỷ lệ các cú đánh tệ làm cho anh ta mất gậy thua đối thủ. Đó chính là Strokes Gained'. Sẽ không lâu nữa, chỉ số này sẽ được sử dụng rộng rãi để thống kê cho các cú distance wedge, điều này sẽ thực sự hữu ích cho tôi khi làm việc với những golfer chơi Tour của mình.

    Mục tiêu xuyên suốt của cuốn sách này là tạo ra một cú đánh tiếp xúc bóng chắc chắn, ổn định, và loại bỏ những cú đánh hỏng cũng như phát triển các kỹ năng cần thiết để kiểm soát khoảng cách, tăng khả năng đưa bóng gần cờ và hoàn thành lỗ bằng một cú putt. Trong quá trình luyện tập, tôi cố gắng định lượng các phạm vi khoảng cách này cho khách hàng của mình bằng cách đưa ra các phạm vi khoảng cách như: nếu họ đưa bóng đến cách cờ bằng hoặc nhỏ hơn 2 bước là họ được birdie phạm vi từ 3 đến 10 bước là par và hơn 10 bước là bogey. Đây là những tiêu chuẩn cao, nhưng chúng phản ánh chính xác thực tế. Do đó, điều quan trọng là bạn phải chấp nhận thử thách đó.

    + Strokes Gained: là thông số so sánh thành tích ở nhiều khía cạnh của một golfer (off-the-tee, approach, tee-to-green, putting...) với mức trung bình của toàn bộ golfer khác trong cùng giải đấu/hệ thống. Vào khoảng 2013 -2014, lúc James Sieckmann viết cuốn sách này thì Stroke Gained chưa được sử dụng rộng rãi.

    Có kế hoạch

    Một trong những điều mà Dave Pelz đã dạy cho tôi khi tôi làm việc cho anh ấy là hầu như mọi golfer đều có thể đánh bóng thẳng tương đối khi họ có gậy lob wedge trong tay, nhưng yếu tố quyết định thành công là khả năng kiểm soát khoảng cách. Lỗi chính trong short game là đánh bóng quá xa hoặc quá ngắn; còn trong long game là lệch quá xa về bên trái hoặc phải. Vì lý do này, kiểm soát khoảng cách trong short game là yếu tố quan trọng. Một cú đánh đáng lẽ 60 yard nhưng lại bay 70 yard vào bunker phía sau vẫn là một kết quả tồi tệ, bất kể bạn thích nó đến mức nào và nó trông đẹp như thế nào khi nó ở trên không.

    Muốn chơi tốt cú distance wedge, bạn phải có một hệ thống kiến thức đơn giản cho phép bạn chọn đúng cú đánh, kiểm soát được cả backspin và quỹ đạo bay của bóng, để bạn có thể đánh bóng một cách ổn định đúng khoảng cách. Nếu bạn không thích ý định có một “hệ thống” bởi vì bạn là một người chơi theo feel, điều này đối với tôi đó chỉ là sự biện hộ. “Tôi không biết phải bắt đầu thế nào. Để chơi giỏi cú distance wedge phải cố gắng và tập trung lắm, với lại tôi là người thích chơi theo feel”. Đó là những điều họ tự nói với bản thân và với các golfer khác. Tất nhiên là bạn chơi theo feel và tất cả chúng ta đều như vậy! Nhưng bí quyết là bạn có một kế hoạch để bổ sung cho feel của mình và giúp bạn phát triển khả năng cảm nhận khi tiếp xúc bóng, để bạn có thể chơi được ở trình độ cao nhất. Hiệu quả hệ thống kiến thức của tôi được chứng minh bởi các vận động viên chơi Tour như: Nick Watney, Tom Pernice Jr. và Kevin Chappell. Họ đều ở trong top đầu của một trong ba hạng mục xếp hạng thống kê cú distance wedge trên PGA Tour trong những năm gần đây. Họ đã làm chủ được hệ thống này và vì thế bạn cũng có thể.

    Ma trận khoảng cách của cú đánh distance wedge

    Trong Chương 3, tôi đã đề xuất bạn sử dụng một bộ gậy wedge gồm 2,3 hoặc 4 cây tùy theo khoảng cách bóng bay khi bạn đánh full swing bằng gậy pitching wedge, với độ chia khoảng cách không quá 20 yard. Giả sử bạn mang theo 4 gay wedge: pitching wedge, gap wedge, sand wedge, and lob wedge. Dĩ nhiên bạn đã biết 4 khoảng cách tương ứng với 4 gậy khi full swing. Nhưng điều quan trọng cần lưu ý là, những khoảng cách này là khoảng cách bóng bay, được ghi nhận khi thực hiện các cú đánh tốt, không bao gồm khoảng cách bóng lăn. Bạn cần phải tính toán khoảng cách tổng thật chính xác, nếu muốn đánh bóng on green và kết thúc bằng một putt.

    Ngoài 4 khoảng cách đã biết của bạn, mỗi gậy bạn nên đánh thêm 2 khoảng cách nữa, vậy tổng cộng là 12 khoảng cách. (Nếu bạn sử dụng 3 gậy, bạn sẽ có 9 khoảng cách). Bạn đánh thêm 2 khoảng cách ngắn này bằng cách thu ngắn backswing lại với nhịp nhanh hơn một chút để truyền ít năng lượng hơn cho bóng. Ngắn như thế nào? Sử dụng hình ảnh của một chiếc đồng hồ, tôi luôn chọn vị trí 9 giờ và 7 giờ 30 để thể hiện vị trí cánh tay trái ở thời điểm cuối cùng của backswing. I.K. Kim gọi các vị trí backwing này là “ba phần tư” và “một nửa”. Cũng có những học viên thích dùng nách và rốn để canh theo. Tôi thực sự không quan tâm bạn gọi chúng là gì, hay bạn dùng gì để canh theo, miễn là bạn có thể lặp lại chúng một cách ổn định. Sau khi làm điều này, các số liệu của bạn có thể trông giống như sau:

    Cú swing của distance wedge khác với cú full swing như thế nào?

    Để đánh được bóng đến khoảng cách mình mong muốn, ngoài việc thu ngắn backswing, bạn còn cần phải sử dụng ổn định được “mức độ nỗ lực” khi downswing và tư thế kết thúc cú swing. Mức độ nỗ lực là mang tính cảm tính và chủ quan, do đó bạn phải định lượng được nó. Khi dạy, tôi luôn nói với học viên thực hiện cú full swing như bình thường họ vẫn đánh. Sau đó tôi nói với họ rằng: “Xem như là đây là mức độ cố gắng 9/10 của anh. Anh có thể đánh xa hơn với mức độ cố gắng là 10/10 đúng không? Nhưng đừng làm điều đó vì nó làm anh bị mất kiểm soát và sự ổn định”. Sau đó tôi hướng dẫn họ thực hiện cú đánh với backswing ở vị trí 9 giờ, với mức độ nỗ lực là 7/10. Dĩ nhiên là họ phải tập trung, đánh đi đánh lại một số lần đáng kể để xác định được mức độ nỗ lực của mình khi đánh. Việc “sử dụng” mức độ nỗ lực này một cách ổn định là vấn đề rất quan trọng với phương pháp của tôi. Nếu không có nó thì chỉ một mình chiều dài của backswing, cũng sẽ không giúp cho bạn đánh bóng đến được khoảng cách mong muốn và cũng sẽ không ổn định. Xác định mức độ nỗ lực là một phần trong bước chuẩn bị trước khi thực hiện cú đánh của bạn.

    Ngoài vấn đề về “mức độ nỗ lực” và chiều dài của backswing thì cú swing của distance wedge không nên có gì khác hơn so với cú full swing ngoại trừ ba vấn đề sau:

    1. Hai chân đứng hẹp hơn. Vào bóng với hai bàn chân vuông góc với đường thẳng bóng - mục tiêu, khoảng cách giữa hai chân không xa hơn 12 inch (~ 30 cm). Vị trí bóng nằm giữa hai cẳng chân.

    2. Khoảng 55% trọng lượng cơ thể dồn sang chân trái khi vào bóng. Vấn đề này rất quan trọng đối với golfer đánh bóng bị bổng quá và những golfer đánh bị dày hoặc mỏng.

    3. Không di chuyển áp lực sang chân phải khi backswing. Khi swing gậy đến vị trí top of backswing bạn vẫn nên duy trì áp lực phân bổ lên hai chân giống như là khi bạn vào bóng. Với cú full swing, khi backswing, golfer tăng áp lực dưới chân phải do hai hông xoay, đẩy phần trên của cơ thể và hai vai xoay về phía sau bóng, nhưng bạn sẽ không thấy họ làm như thế khi thực hiện các cú đánh dưới 70 yard. Đơn giản là đối với cú swing distance wedge, swing của bạn đã ngắn lại. Chúng ta không có đủ thời gian để chuyển áp lực sang chân phải, xoay người về sau bóng khi backswing sau đó xoay, chuyển áp lực ngược lại kịp để đưa gậy tiếp xúc bóng đúng thời điểm. Với cú distance wedge, nếu bạn chuyển áp lực sang chân phải, xoay người về sau bóng khi backswing thì bạn sẽ không những đánh bóng quá bổng mà còn sẽ phải “vật lộn” với cú đánh khi dày khi mỏng.

    ' Không di chuyển áp lực sang chân phải: Khi vào bóng, áp lực tĩnh dưới bàn chân trái là 55% và bàn chân phải là 45% của trọng lượng cơ thể. Trong suốt backswing của cú distance wedge thì áp lực vẫn giữ nguyên như vậy không đổi. Trong golf có hai thuật ngữ là CoM (Center of Mass - Trọng tâm của khối) là trọng tâm của cơ thể, CoM thay đổi theo hình dạng của cơ thể. Và CoP (Center of pressure) là trọng tâm của áp lực dưới hai bàn chân. Sức nặng của cơ thể sẽ đè xuống đất qua bề mặt tiếp xúc của hai bàn chân. Khi đứng thẳng, cân bằng thì vị trí của CoM nằm khoảng giữa rốn, và chiếu thẳng đứng xuống giữa hai bàn chân chính là vị trí của CoP. Có một điều rất dễ hiểu lầm khi nói “chuyển trọng lượng” cơ thể trong khi swing, vì chuyển trọng lượng và chuyển áp lực là khác nhau. “Di chuyển trọng lượng” cho ta hình ảnh cơ thể di chuyển và CoM cũng di chuyển. Còn di chuyển áp lực, di chuyển CoP, có thể hiểu là di chuyển áp lực dưới hai bàn chân, từ chân trái qua phải và ngược lại. Khi di chuyển CoM thì chắc chắn là CoP sẽ di chuyển theo, nhưng có giai đoạn chúng ta sẽ di chuyển CoP nhưng không di chuyển CoM, đây chính là mẫu chốt để tối ưu hoá lực cho cú swing.

    Hiểu về quỹ đạo bóng và yếu tố verticals (phương thẳng đứng)

    Để tối ưu hóa sự kiểm soát và ổn định trong những điều kiện khác nhau, những golfer giỏi gậy wedge nhất thường đánh bóng bay thấp một chút trong khi vẫn tạo ra backspin đủ để bóng dừng nhanh trên green. Để làm được điều này họ thực hiện một chuỗi chuyển động (kinematic sequence) đúng với mục đích là tạo lực, đưa đầu gậy tiếp xúc bóng đúng vị trí, tạo ra đủ tốc độ đầu gậy và ma sát giữa mặt gậy và bóng. Bạn cần các rãnh trên mặt gậy phải sạch, không bị mòn và bóng nằm ở vị trí clean để tạo ra backspin tối đa. Điều này lý giải tại sao các vận động viên chuyên nghiệp thường thay gậy wedge của họ hằng năm. (Hãy ghi chú lại và cân nhắc làm tương tự khi các mép rãnh trên mặt gậy bắt đầu bị mòn đáng kể).

    Bằng trực quan thì thấy rằng, nhiều độ loft hơn và tốc độ cao hơn sẽ tạo ra nhiều backspin hơn, nhưng làm thế nào để thực hiện? Hãy nhớ rằng mục đích sử dụng gậy thay đổi, thì kỹ thuật cũng vậy. Nếu bạn sử dụng finesse sequence cho một cú đánh từ khoảng cách 75 yard, thì không thể đánh được đến mục tiêu, mà cho rằng có đủ lực để đánh đến mục tiêu thì bóng sẽ bay rất rất cao và gió sẽ đưa nó đi chỗ nào đó mà mình không biết được. Một cú đánh đủ mạnh, bóng bay thấp hơn thì hiệu quả hơn. Để thực hiện điều này, hãy giảm độ loft động bằng cách để cán gậy dẫn trước đầu gậy khi impact. Sử dụng power sequence và thực hiện đúng việc phối hợp giữa chuyển động di chuyển ngang về phía mục tiêu và xoay của cơ thể khi downswing, là cần thiết để release gậy được theo cách này. Di chuyển ngang không chỉ di chuyển điểm thấp nhất của cung swing về phía trước mà còn để bạn có thời gian swing gậy ngược lại về trước cơ thể khi downswing, nó là mấu chốt để shaft gậy nghiêng nhẹ về phía mục tiêu khi đầu gậy tiếp xúc bóng. Đây thực chất là giai đoạn đầu của quá trình downswing.

    Giai đoạn thứ hai là chuyển động xoay của cơ thể xuyên qua impact và chuyển động swing tiếp tục của hai cánh tay. Chuyển động này tạo ra cái mà tôi gọi là “verticals” - phương thẳng đứng trong cú swing của bạn. Hãy suy nghĩ về sự tương tác của gậy với mặt sân một chút: Hai tay của bạn ở phía trước đầu gậy khi impact và trọng lượng của bạn đang dồn sang chân trái. Hai việc này dường như sẽ làm cho đầu gậy đào nhiều vào mặt sân, mặc dù việc tạo ra divot là bình thường nhưng chúng ta lại không thấy điều này xảy ra khi xem các giải đấu trên tivi. Tại sao vậy? Bởi vì khi cơ thể của họ xoay trong giai đoạn này thì có hai điều xảy ra. 

    1. Chân trái của họ bắt đầu duỗi thẳng ra khi hông xoay trở lại “nằm trên” gót chân trái. (chuyển động này đẩy cơ thể lên theo phương thẳng đứng, đồng thời cũng đưa gậy di chuyển lên).

    2. Vai trái xoay lên về phía sau cũng kéo gậy di chuyển lên theo phương đứng.

    Cả hai điều vertical (phương thẳng đứng) này làm giảm góc tấn công của gậy, đầu gậy không cày sâu vào mặt sân và cho phép hai tay di chuyển trước đầu gậy khi tác động vào bóng, đồng thời điểm thấp nhất của cung swing cũng di chuyển về phía trước. Về bản chất bạn đã trộn lại và trung hòa được hai yếu tố làm tăng góc tấn công bóng (stacked backswing' và di chuyển ngang của cơ thể khi downswing) với hai yếu tố làm giảm góc tấn công bóng (là hai chuyển động kéo gậy di chuyển lên theo phương thẳng đứng). Kết quả là một sự tiếp xúc bóng hoàn hảo và một đường bóng bay có kiểm soát.

    ĐỐI TÁC THƯƠNG HIỆU
    0
    Zalo
    Hotline