CHƯƠNG 1
CÚ PUTT VÔ THỨC
Nếu bạn đến gặp tôi để học, việc bắt đầu hầu như giống nhau, bất kể bạn có handicap 15 hay là một vận động viên vô địch ở giải Master đang muốn tối ưu kỹ năng của mình.
Nó sẽ khởi đầu bằng một mảnh giấy và một cây viết. Và tôi sẽ yêu cầu bạn ký tên mình giống như ký séc ngân hàng. Bạn có tập trung vào việc ký không?
Không có câu trả lời đúng hay sai. Một vài người sử dụng cây bút giống như cọ vẽ và thực hiện việc ký tên một cách cẩn thận và có phần phức tạp. Nhưng hầu hết mọi người chỉ ký thôi mà thậm chí không cần phải quá tập trung hay cố gắng để thực hiện việc này. Khi ký họ không suy nghĩ là phải đưa bút lên, xuống thế nào, bao nhiêu nét, dài ngắn ra sao, khi ký đầu họ trống rỗng hoặc nghĩ việc khác, chỉ có tay họ tự thực hiện việc ký. Việc ký này họ đã thực hiện rất nhiều lần và trong một quãng thời gian dài, nên nó đã trở thành bản năng tự nhiên.
Sau khi bạn ký xong, tôi yêu cầu bạn ký lại một chữ khác, cố gắng càng giống chữ vừa ký càng tốt. Lúc này bạn thực sự sẽ thấy khó khăn khi cố gắng ký một cách có chủ ý sao cho giống chữ ký cũ đúng không?
Điều mà tôi muốn nhấn mạnh qua bài tập nhỏ ở trên đó là, thực hiện các chuyển động vật lý đã in sâu vào trong tiềm thức của bạn luôn luôn dễ hơn rất nhiều so với việc thực hiện các chuyển động mà bạn phải cố gắng để lặp lại.
Để tôi cho bạn một ví dụ khác.
Tôi sống cách bờ biển Nam California khoảng 75 dặm. Tôi lên xe và lái đến biển, rồi hạ cửa kính xe, tỳ khuỷu tay lên bệ cửa, tay còn lại giữ vô lăng và thưởng thức một bài hát đang phát ra từ radio. Tôi đã lái xe hơn 50 năm nay và đã qua khoảng thời gian phải tập trung một cách có ý thức để suy nghĩ mình nên lái thế nào, tăng tốc, thắng và quay đầu ra sao. Kỹ năng lái xe đã in sâu vào trong tiềm thức của tôi. Thật vậy, trên đường lái xe về nhà, bạn suy nghĩ đủ thứ trong đầu và hầu như không để ý mọi thứ xung quanh, nhưng tiềm thức vẫn hoạt động. Nó tự xử lý, tránh né chướng ngại vật, phanh lại khi đèn đỏ, rẽ trái, quẹo phải... Bạn về đến nhà mà nếu ai đó hỏi lại tình hình trên đường đi vừa rồi thì bạn sẽ chẳng nhớ gì. Và dĩ nhiên cũng đã có trường hợp đi lố qua khỏi nhà và rẽ qua một hướng khác để đi một đến nơi đã quen thuộc nhất trong tiềm thức.
Hãy thử đặt bản thân vào tình cảnh tương tự. Bạn đang lái xe về nhà theo một lộ trình mà bạn đã đi hàng ngàn lần trước đó. Điều gì sẽ xảy ra khi một chiếc xe cảnh sát nhô ra và theo đuôi xe bạn?
Bỗng nhiên tất cả các chuyển động đã in sâu trong tiềm thức hiện ra. Bạn sẽ nghĩ lại xem mình chạy nhanh như thế nào, có lỗi gì không, liệu có thể bị tuýt còi yêu cầu dừng lại không. Và ngay lập tức bạn sẽ chú ý vào việc lái của mình hơn, xem lại làn đường đang đi, so sánh tốc độ đang chạy và tốc độ cho phép, thắt lại dây an toàn, chỉnh lại tư thế ngồi... Nói cách khác, nó mất một phần năng lượng và sự tập trung đáng kể để thực hiện một vài thứ mà vừa mới lúc nãy bạn thậm chí còn không ý thức về nó.
' 1 dặm = 1,609344 ki lô mét.
Một sự thật không may mắn là tình trạng này cũng giống như tình trạng của hầu hết mọi người khi putt. Khi họ bị áp lực, khi họ cố gắng bắt chước theo một kiểu putt của ai đó mà họ cho rằng nó hiệu quả và tốt cho mình, họ chơi một cách căng thẳng, cố gắng để lặp lại một cú đánh tương tự hơn là thực hiện cú đánh của riêng mình.
Đối với tôi, như thế thì không thể chơi tốt được hoặc nó không phải là cách hay cho bạn.
Những năm gần đây, đa phần việc huấn luyện mà con tôi và tôi thực hiện trong các khoá học là chỉ ra cho các golfer biết cách làm thế nào để “mở khóa” được cú đánh tự nhiên, trôi chảy, hiệu quả đang tiềm ẩn bên trong họ.
Chúng tôi đang dạy những golfer bình thường và những vận động viên chuyên nghiệp cùng một giáo trình, đó là putt vô thức.
Thực sự thì không có mưu mẹo hay điều gì bí ẩn ở đây cả. Cốt lõi của putt vô thức liên quan đến việc học làm thế nào để thấy được line tối ưu, và thực hiện được một chu trình các bước trước khi putt ổn định, để bạn lưu giữ được hình ảnh dự định của cú đánh và lăn bóng đúng theo line đã dự định.
Hiện tại các thầy dạy putt đa phần nhấn mạnh vào việc tập các chuyển động cơ học, cố gắng để bắt chước, học những kiểu putt mà họ cho rằng là tốt nhất. Tôi không phê bình gì chuyện đó cả. Vì khi học lái xe, bạn cũng phải học cách xoay vô lăng, sửa, kiểm tra xe và luật giao thông. Tuy nhiên vấn đề mà tôi cho là quan trọng nhất của cú putt đó là về mental. Việc chú tâm vào dạy các chuyển động cơ học có xu hướng làm cho golfer hành động giống như khi bắt chước để ký lặp lại chữ ký của người khác chứ không phải ký chữ ký của riêng mình. Khi bạn tập trung quá nhiều vào những chuyển động của tay, backswing' bao xa, đầu gậy di chuyển thẳng hay vòng cung, hay nhiều các thông tin cơ học khác, sự tập trung của bạn đang bị chệch hướng, bạn nên tập trung vào điều nên tập trung đó là đúng line và tốc độ.
Tôi sẽ chia sẻ với bạn một vài thứ mà có lẽ rất khác so với những thứ mà bạn đã học. Cho dù kiểu putt của bạn như thế nào, ngắn nhanh hay dài nhẹ nhàng, cho dù bạn không có tư thế vào bóng vuông hoàn hảo với đường thẳng bóng - chỗ này mục tiêu, hoặc vị trí bóng so với hai chân hôm nay mai chỗ khác, tất cả những điều đó đều không có vấn đề gì với tôi cả.
* Backswing: Là động tác vung gậy về phía sau, bắt đầu từ vị trí vào bóng cho đến vị trí cuối cùng, khi gậy dừng lại để bắt đầu di chuyển ngược lại về phía trước (downswing).
Đối với tôi, những gì bạn cần đó là một kiểu vào bóng và một cú đánh phù hợp với khí chất, kiểu cơ thể của bạn và nó làm bạn cảm thấy thoải mái và tự tin. Chúng ta sinh ra mỗi người mỗi khác. Nếu bạn cao và có cánh tay dài thì sẽ cảm thấy tốt hơn khi vào bóng ở tư thế khác với người thấp hơn. Nếu bạn là người mập, cơ bắp, phần trên cơ thể cứng bạn sẽ thực hiện cú putt nhanh, mạnh, ngắn, khác với người gầy và dẻo hơn.
Mỗi người rõ ràng là có khí chất khác nhau, tôi cũng vậy. Một người luôn tràn đầy năng lượng, bước, nói chuyện và di chuyển nhanh, năng động sẽ có cú putt khác một cách tự nhiên so với người có năng lượng thấp, chậm, thận trọng. Cách chúng ta xử lý thông tin cũng khác nhau, cách của bạn có thể khác với cách của tôi. Một số golfer tiếp nhận tốt và tận dụng được các thông tin về line, tốc độ do caddy và đồng đội tư vấn, trong khi một số khác thì chỉ thấy những gì họ thấy. Và họ chỉ chọn và quyết định theo điều đó mà không bị bất kỳ ý kiến nào khác làm họ sao lãng.
Ngoài ra, cảm giác của chúng ta mỗi ngày mỗi khác. Chúng ta là người chứ không phải là máy. Thỉnh thoảng bạn lại cảm thấy tự tin, thoải mái hơn khi đứng rộng chân ra một chút, bóng dời về phía trước một chút. Tôi khuyến khích những học viên của tôi tiếp nhận những cảm giác này và sống cùng với nó. Nhiều người hỏi tôi về vị trí bóng hay hai chân đứng rộng bao nhiêu khi tôi putt. Câu trả lời là “Cũng còn tùy...”. Có lẽ điều này sẽ làm những golfer muốn xác định chính xác các vấn đề khiến bản thân cảm thấy khó chịu, nhưng thực sự nó là vậy.
Bài học mà tôi muốn đưa ra ở đây là một bài học của cha tôi, Gail Stockton, đã dạy cho tôi cách đây hơn 50 năm.
Những người putt giỏi nhất là những người sử dụng hầu hết năng lượng của họ để tập trung vào line và tốc độ của cú putt. Họ kết nối (connect) với cảm giác/cảm nhận (feel), chứ không phải với một danh sách các chuyển động cơ học của các bộ phận trên cơ thể.
Như tôi đã đề cập, các chuyển động cơ học của cơ thể có vai trò của nó. Đặc biệt nếu bạn là người bắt đầu chơi golf, hoặc người chưa thể thực hiện điều cơ bản nhất đó là putt cho trúng chính giữa mặt gậy một cách ổn định. Việc học, luyện tập một vài điều cơ bản (sẽ được nói rõ trong Chương 4) giống như một lớp học lái xe cho những bạn 15 tuổi. Bạn học làm thế nào để khởi động, vào số, giữ vô lăng, tăng tốc, quay đầu... và dừng lại. Một khi bạn đã biết những điều này, thì sau đó bạn sẽ tiếp tục học làm thế nào để “lái” xe. Khi lái, bạn phải thu thập thông tin, phân tích, so sánh với luật Giao thông, phán đoán các tình huống có thể xảy ra và phản xạ lại bằng các chuyển động của cơ thể hầu như là bằng tiềm thức.
' Feel: cảm thấy, cảm giác, cảm nhận, cảm giác khi sờ một cái gì đó.
Bạn hãy thử xem các tay đua công thức 1 lái khoảng 200 dặm/h và nói cho tôi nghe. Theo bạn thì các tay đua này có nghĩ đến việc di chuyển tay xa như thế nào để sang số, hay xoay vô lăng sang trái bao nhiêu để vượt qua một vòng cua? Anh ta không nghĩ đến điều đó. Tất cả các chuyển động này đã được xử lý một cách vô thức và bản năng. Lúc này chắc chắn một điều rằng anh ta lái bằng feel, mọi động tác chỉ là phản xạ của cơ thể đã được tập luyện, anh ta không để ý gì đến các thao tác cần phải thực hiện. Với sự tập trung cao độ, người và xe là một. Tương tự, cú putt cũng giống như vậy. Tôi nhớ vào một giải đấu PGA hay Champion gì đấy, tôi đứng trước một cú putt ở hố đầu tiên. Tôi thực hiện các bước trước khi putt, đọc green. Sau đó tôi xác định line, tốc độ mà tôi dự định sẽ lăn bóng và thu hẹp sự tập trung tinh thần (điều này sẽ đề cập đến trong Chương 3). Tôi không hề nghĩ đến các động tác cơ học để lăn bóng chút nào cả. Tôi cảm giác như “chìm” vào cú putt của mình, thế giới lúc này chỉ có mình tôi.
Gần cuối của cuốn sách này, bạn cũng sẽ như vậy cùng với gậy putt của mình trong tay.
Tại sao tôi có thể chắc chắn như vậy? Bởi vì tôi đang dạy bạn thực hiện một thứ mà trong tiềm thức bạn đã biết làm nó thế nào. Thứ mà bạn không nhận ra, do bị “che kín” bởi sự phức tạp, bởi những lý thuyết, kỹ thuật đã được đúc kết ra để hướng dẫn bạn putt. Chúng ta sẽ quay lại để xem một cậu bé học cách làm thế nào để putt.
Bố tôi là vận động viên chuyên nghiệp đầu tiên ở Câu lạc bộ Arrowhead Country, ở San Bernardino, California. Ngôi nhà nơi tôi lớn lên cách một cửa hàng bán đồ golf khoảng 3 căn nhà. Lúc đó tôi khoảng 3 tuổi, tôi thường chơi ngoài sân một mình và nghịch ngợm cùng với cây 3 gỗ, cây 8 sắt và một cây gậy putt mang theo trong cái túi đựng gậy nhỏ xíu của mình. Tôi không thể nhớ hết cái đống các bài tập long game, short game' mà ông đã dạy cho mình vào lúc bắt đầu với golf. Nhưng nhìn lại mới thấy ông ấy đã chuẩn bị cho tôi một cách tuyệt vời như thế nào, khi muốn hướng cho tôi theo đuổi sự nghiệp của một vận động viên golf chuyên nghiệp, và thậm chí là một huấn luyện viên.
90% những gì ông dạy cho tôi bao gồm các nguyên tắc cơ bản về mental. Hướng dẫn tôi làm thế nào để tưởng tượng, hình dung ra được trong đầu hình ảnh một cú putt hay một cú đánh mà tôi sắp sửa thực hiện. Phần còn lại là một chuỗi các mẹo rất hay về các nguyên tắc cơ bản và các lời khuyên về dụng cụ chơi. Sở trường của ông là phát triển khả năng của từng người dựa trên khả năng riêng của họ và giúp họ có cảm giác thoải mái khi chơi.
Khi tôi còn là một cậu bé, ông đã chỉ cho tôi cách cầm gậy để tôi có thể tự tập. Tôi đã ghi nhớ các mẹo, những lời nhắc nhở và áp dụng chúng. Một vài giờ sau đó tôi quay lại và nói với ông rằng đã tập được nó và đã sẵn sàng cho mẹo tiếp theo. Lúc đó ông gạt đi và nói với tôi hãy ra tập đi. Ông không bao giờ nói với tôi rằng tại sao lại phải luyện tập cái này hay cái kia và điều này thỉnh thoảng thực sự làm tôi cảm thấy bực mình, khó chịu và nghĩ rằng hình như ông không quan tâm đến việc chỉ dạy cho mình. Nhưng nó ngược lại. Ông biết giá trị của việc ươm mầm những thứ cần thiết vào trong tiềm thức của tôi và để tôi luyện tập thành thục hoàn toàn trước khi chỉ cho tôi thứ khác.
Short game: là những cú đánh ngắn với khoảng cách 120 yard trở lại bao gồm cả cú putt.
Cha tôi cũng hiểu được giá trị của việc giữ cho tôi lúc nào cũng ở trạng thái khao khát được chơi golf. Năm 15 tuổi, tôi bị một tai nạn tương đối trầm trọng khi chơi lướt sóng. Khi tôi đang ở phần nước nông và chuẩn bị đẩy lấy đà lên ván trượt thì một cô gái gần tôi không kiểm soát được ván lướt sóng, loại ván trượt to, nặng, bằng gỗ dài khoảng 9 feet. Tấm ván đâm thẳng vào lưng làm tôi choáng váng. Tôi phải bỏ luôn ngày lướt sóng hôm đó và về nhà sớm. Lưng của tôi đau không khỏi và cuối cùng tôi phải đến gặp bác sĩ. Ông ta nói tôi bị gãy 6 xương sườn. Tình trạng chấn thương khá nặng khiến tôi phải kết thúc luôn sự nghiệp bóng rổ và bóng chày. Lúc đó tôi biết rằng nếu tôi muốn có học bổng để vào học cao đẳng thì golf là tấm vé để tôi làm được điều này, là cách duy nhất mà tôi có thể cố gắng để đạt được.
Tôi sẽ chơi cho đội của trường trong mùa kế tiếp, nhưng cha tôi lại sắp xếp tôi làm việc cho một người bạn của ông có xưởng gỗ ở Gibson, giống như hồi tôi mới lên 13 tuổi. Tôi không có nhiều cơ hội để chơi golf, chắc chỉ được khoảng 4 trận trong thời gian từ tháng 6 cho đến tháng 9 năm đó. Khi tôi quay lại trường thì đã bị tụt hậu, tất cả những gã đã từng bị tôi đánh bại trong mùa xuân vừa rồi, lúc này đã giỏi hơn tôi và tôi đã phải cố gắng luyện tập để theo kịp. Cha tôi muốn tôi giữ và truyền sự thèm muốn được chơi đó vào sự phấn đấu, cạnh tranh khi chơi trên sân.
1 feet = 0,3048 mét.
Cuối cùng tôi có được học bổng vào trường Đại học Southern California, cũng tại đây, cha tôi là một thành viên của All-American vào thập niên 1930. Huấn luyện viên của trường lúc đó là Stan Wood. Lịch sử thi đấu của tôi chỉ bắt đầu khi tôi 17 tuổi. Lúc này cha tôi cũng bớt nghiêm khắc hơn một chút và tôi được phép tham gia 4 giải đấu. Một là giải đấu The National Hearst, được tài trợ bởi một loạt tạp chí. Trong giải đấu khu vực để xếp hạng ở Riviera, tại lỗ đầu tiên, tôi đã bị 10 gậy sau cú đánh bóng bay xuống một khe núi có cát và đá nằm rải rác. 17 lỗ sau đó, tôi về 75 gậy và phải chơi một vòng match-play. Tôi đã thắng khi chưa đến lỗ 15, và điều kế tiếp tôi biết là tôi sẽ được đến Albany, New York.
Tôi ít khi được đi xa đây đó và cũng không thích xa nhà. Nơi xa nhất mà tôi từng đi là đến thăm ông bà ở Tucson. Sau khi kết thúc giải, tôi phải xuống New York để tham gia lễ trao giải. Trong chuyến đi đó tôi đã tham quan tòa nhà Empire State và tượng Nữ thần Tự do. Cùng mùa hè năm đó, tôi tham gia giải U.S Junior và vào được tứ kết. Hai giải đấu này đã giúp tôi có được học bổng từ hai trường USC và Arizona. Tôi lựa chọn USC vì theo học ở đây, tôi có thể đi học mà cuối tuần vẫn có thể về nhà.
' Match play: là đánh đối kháng giữa 2 golfer hoặc 2 team với nhau. Tính thắng thua theo từng hố, bên nào thắng được nhiều hố hơn thì thắng.
Thời đó, không có giải golf vào mùa thu và vì là sinh viên năm đầu nên tôi cũng không được chơi. Khi mùa xuân đến, Mr. Wood, huấn luyện viên rủ tôi lái xe xuống Tucson để đánh trận tứ kết với UCLA, Arizona và Arizona State. Khi xuống đó, tôi đã tham gia và chơi cùng với các huấn luyện viên. Trận đó tôi về 66 gậy, và best score cho đội USC ngày hôm đó là 74 gậy. Kỷ lục của Geiberger vẫn được duy trì, và đó là một mùa xuân dài mà tôi chờ đợi để có cơ hội được chơi.
Những năm tháng thời niên thiếu, tôi rất mong muốn được chơi golf chuyên nghiệp, nhưng cha tôi muốn tôi phải có một kế hoạch dự phòng cho cuộc sống của mình sau này. Cha tôi là một vận động viên chuyên nghiệp và là một golfer rất giỏi. Tôi có một bức hình chụp ông với Walter Hagen trước khi họ cùng chơi vào khoảng những năm 1930. Nhưng thậm chí ngay cả những golfer giỏi cũng không có cách để kiếm tiền một cách ổn định vào những thập niên này, thậm chí cả đến những năm 1960, vì thế cha tôi chuyển qua dạy và sau đó là làm chủ một cửa hàng của chính mình, Stockton Sporting Goods. Ông muốn tôi tốt nghiệp một nghề nào đó để có thể quay lại làm việc, trong trường hợp không thành công với golf. Vì thế sau khi kết thúc mùa golf trẻ, tôi quay lại trường đại học và hoàn thành hết các tín chỉ cuối cùng. Năm đó tôi tốt nghiệp và có bằng quản trị doanh nghiệp và tài chính.
Best score: Điểm tốt nhất của một cá nhân, hoặc một đội chơi được từ khi bắt đầu chơi golf đến nay. Hoặc có thể là điểm tốt nhất trong phạm vi nào đó theo ý của người sử dụng.
Chơi golf ở trường đại học chỉ chơi team (đội), điểm số của bạn là để lập team thi đấu cho trường. Tôi đã giành được một số giải - bao gồm cả danh hiệu cá nhân Pac-10, giống như cha tôi đã có. Nhưng tham gia giải Nghiệp dư Hoa Kỳ vào năm 1963 mới cho tôi cảm nhận đầu tiên về cảm giác thi đấu cho chính mình. Tôi đã cùng với một người bạn thân - Roger Cleveland' lái chiếc Volkswagen Beetle của anh ấy đến tận Wakonda ở Des Moines, Iowa, để tham gia giải đó.
Roger Cleveland: là người có tác động rất lớn đến ngành công nghiệp thiết bị golf. Ông là người sáng lập ra thương hiệu Cleveland Classics, chuyện về thiết kế gây wood và gậy wedge. Sau khi bán thương hiệu Cleveland, ông thiết kế gậy cho hãng Callaway và cho tới nay vẫn thiết kế một số gậy wedge được đánh giá là tốt nhất.
Khi chúng tôi đến đó mới thấy được không khí hào hứng thu hút của giải đấu. Roger vượt qua được vòng một, còn tôi thì sẽ chơi với Bill Hyndman, người đã chơi ở tất cả mọi giải - North and South, Masters, British Amateur. Trong khi đó, tiểu sử của tôi chỉ vỏn vẹn một dòng - San Bernardino, Calif. Tôi biết Roger sẽ ở lại ít nhất hai ngày để tiếp tục thị đấu vì vậy tôi cũng phải ở lại. Nên tôi quyết tâm ít nhất phải vượt qua vòng đầu tiên nếu không tôi phải đợi anh ấy. Tôi đã đánh bại Hyndman với thành tích là 7 gậy và 6 gậy.
Bị 3 putt ở một lỗ đã khiến tôi mất cơ hội tham gia giải Masters, khi cả bốn người vào bán kết của giải Nghiệp dư năm trước đều được mời. Tôi đã thua Walter Stahl sau 21 lỗ, ở tứ kết, sau khi bị 3 putt từ khoảng cách 20 feet. Tôi đã rất buồn bực và thất vọng với kết quả thi đấu. Nhưng khi cùng với Roger (anh ấy đã bị loại ở vòng thứ ba) lái xe trở về nhà, tôi biết tôi có thể đua tranh với ngay cả những người nghiệp dư giỏi nhất - như Deane Beman (người đã vô địch giải) và George Archer.
Tôi chỉ cần tham gia thêm các giải đấu để chứng minh điều đó.
Tôi gặp vợ tôi, Cathy, trong suốt mùa giải trẻ của tôi tại USC, lúc này cô ấy đang sống ở Redlands, California. Chúng tôi cưới nhau vào ngày 27 tháng 1 năm 1965, sau khi tôi tốt nghiệp trung học. Sau đó bà tôi và hai doanh nhân ở San Bernardino, Ken Hunter và Stick Reilly, mỗi người đã tài trợ cho tôi 2.000 đô la và tôi bắt đầu chơi golf chuyên nghiệp.
Cathy và tôi phải rời nhà và di chuyển theo nơi tổ chức thi đấu giải. Chúng tôi không quay trở lại cho đến tháng 10, bởi vì không có tiền để bay về. Mẹ của Cathy đã gọi và mô tả cho chúng tôi một vài món quà cưới mà chúng tôi đã nhận được để Cathy gửi lời cảm ơn đến những người tặng.
Cuộc sống của một vận động viên khi tham gia các giải chuyên nghiệp cũng là một con đường khó khăn. Tôi nghĩ tôi đã sử dụng khoảng 7.000 đô la và kiếm được 5.000 đô la trong năm đầu tiên. Năm thứ 2, tôi sử dụng hết 8.000 đô la trong khi chỉ kiếm được 6.000 đô la. Tôi bị mắc phải một căn bệnh gọi là peripheral vision loss hay còn gọi là Tunnel vision - hội chứng tầm nhìn hình ống. Tôi biết mình có khả năng chơi short game rất tốt. Điều này có nghĩa rằng tôi đã nắm được một nửa phần thắng. Tôi thường nhờ cha tôi kiểm tra swing cho mình. Tôi gọi cho ông ấy, mô tả lại cú đánh mà tôi đánh, và ông ấy giúp tôi chẩn đoán vấn đề mà tôi gặp phải. Chúng tôi cùng xem video quay lại được bởi loại camera đời xưa thời giữa những năm 1960 và ông hỏi tôi thấy gì và điều gì tôi cần để khắc phục vấn đề của mình.
Một trong những yếu tố được ông nhấn mạnh trong quá trình chỉ dạy cho tôi đó là cảm giác và sự tưởng tượng. Cha tôi không bao giờ để cho tôi đánh 1 gậy nhiều hơn 5 trái bóng. Nếu tôi đánh 3 trái bị hook và cao thì ông yêu cầu đánh một cú punch shot (cú đánh bóng bay thấp và lăn nhiều). Tôi đánh bằng bản năng theo kiểu của tôi chứ không bắt chước theo động tác chuẩn của ai cả.
' Tunnel vision: còn gọi là mất thị trường ngoại biên. Bệnh nhân không có tầm nhìn rộng và không có được góc nhìn bình thường, mặc dù tầm nhìn trung tâm vẫn ổn, tạo cảm giác như đang nhìn qua một đường ống hẹp.
Tôi không đọc một từ nào từ bất kỳ một cuốn tạp chí golf, hay nghe những gì từ người khác nói về swing của mình. Tôi nghĩ là mình rất giống với Jim Furyk hiện nay, và cũng như mối quan hệ giữa Jim với cha của anh ta. Jim không có kiểu swing như thông thường, nhưng nó nhìn khá đẹp khi anh ta nhận giải Player of the Year (tạm dịch: Người chơi của năm).
Vào những năm đầu tiên, tôi khá may mắn khi có một vài người bạn cùng chơi, họ đã cho tôi một vài lời khuyên rất tuyệt vời về tâm lý. Thực sự thì những lời khuyên này chỉ là củng cố lại những điều mà tôi đã được học từ cha mình, là những kiến thức đã chứng tỏ được hiệu quả của nó qua các giải đấu mà cha tôi đã tham gia.
Vào năm thứ hai chơi chuyên nghiệp, tôi chơi cùng flight (nhóm đấu) với Don January và Arnold Palmer tại giải L.A Open năm 1966. Việc cùng flight và chơi dưới áp lực của Arnold là đủ để khiến bất kỳ ai cũng phải e ngại. Ở lỗ phát bóng đầu tiên, tôi chưa bao giờ thấy khán giả đứng cổ vũ nhiều như vậy. Lúc đó Don kéo tôi sang một bên, quàng tay qua vai tôi và nói nhỏ với tôi vài lời khuyên để hướng dẫn tôi tập trung vào trận đấu của mình, không để những người hâm mộ và hào quang của Arnold làm phân tâm. Thời buổi đó, tất cả golfer chuyên nghiệp đều chơi rất quyết liệt và gay gắt chỉ vì kiếm sống. Don chỉ cần đứng im và xem tôi có thể bị chôn vùi dưới áp lực vô cùng khó chịu đang diễn ra, nhưng anh ấy không làm vậy, anh ấy thật sự tử tế.
Hook: Dùng để miêu tả đường bay của trái bóng, bóng bị hook khởi đầu bay thẳng và gần cuối thì cong nhiều sang bên trái.
Al Geiberger từ thần tượng đã trở thành một người bạn thâm niên của tôi. Anh ấy cùng chơi với tôi rất nhiều vòng golf tập khi tôi ở USC. Al kể cho tôi nghe về sự khác nhau của các sân golf và cách mà anh cố gắng để khuất phục nó. Vào năm 1967 tại sân Colonial, nơi mà anh ta chưa bao giờ chơi tốt cả, Al Geiberger đã đưa ra cho tôi một kế hoạch rất tốt và cuối cùng tôi đã thắng giải trong tuần đó. Đó là chiến thắng đầu tiên của tôi ở giải PGA. Tôi tiếp tục thắng 10 giải PGA khác nữa, trong đó có 2 giải Major vào năm 1970 và vô địch năm 1976. Ở các giải Champion, tôi thắng hơn 14 lần, bao gồm 3 giải Major năm 1992, Senior Player Championship năm 1994 và Senior U.S Open năm 1996.
Có một vài kinh nghiệm mà tôi đúc kết được từ thời gian này. Tôi sẽ chia sẻ với bạn trong vài chương kế tiếp. Đây là những điều mà tôi đã chú ý sau cuộc trò chuyện giữa tôi với Byron Nelson vào đầu năm 1976, khi bắt đầu mùa giải mà lần thứ hai tôi giành được giải major.
Tôi rất thích và thường hay đi săn hoặc đi câu. Khi hết mùa giải, tôi đến Yukon khoảng 2 tuần. Đó là kỳ nghỉ tuyệt vời với những chuyến săn bắn, câu cá tuyệt vời và tận hưởng những tia nắng ấm áp của vùng phía Bắc này. Vào cuối đợt nghỉ, tôi ra thẳng sân Cypress Point. Tôi thậm chí còn không có giày và gậy nên phải mượn của Jim Langley - người bạn thân của tôi từ những ngày đầu tham gia chơi golf chuyên nghiệp. Khi đứng vào tee off 1 ở lỗ đầu tiên, tôi tự hỏi, “Lần cuối mình nghĩ đến việc đánh một trái bóng là lúc nào nhỉ?”. Thay vì lo lắng về việc này, tôi cứ thế swing. Tôi -7 gậy khi đánh được 14 lỗ, lỗ 15 hole-in-one và lỗ 16 là birdie. Hết 18 lỗ tôi đánh khoảng 65 gậy.
Một vài tuần sau đó, ở giải Masters, khi ăn trưa với Byron Nelson, tôi đã hỏi anh ấy nghĩ gì trong khoảng thời gian năm 1945, lúc đang ở đỉnh cao của sự nghiệp. Anh ấy đã trả lời rằng, anh ấy chỉ nghĩ duy nhất đến một kiểu swing và đã sử dụng nó suốt năm đó. Anh ấy ra sân tập thả lỏng hai vai và cứ thế swing.
Sau lần nói chuyện với Byron, tôi đã bắt đầu nhận ra được món quà mà cha tôi đã trao cho tôi, và cũng là thứ mà tôi chú trọng sau này trong lúc chơi cũng như lúc dạy. Bạn phải để nó xảy ra và tin vào những gì bạn biết. Hãy sử dụng trí tưởng tượng để “thực hiện” nó trong đầu trước, sau đó bạn mới thực sự thực hiện nó. Nền tảng mà cha tôi truyền đạt lại cho tôi, cho phép tôi chơi suốt giải cùng với một ý nghĩ và 46 năm sau, tôi vẫn thực hiện điều này. Tôi chưa bao giờ nghe được bất cứ điều gì tốt hơn điều mà tôi đã có.
Tee off: Phát bóng để bắt đầu trận golf.
Tôi đang dạy cùng với các con của mình, Dave Jr. và Ronnie, chúng tôi đã thảo luận nhiều về triết lý dạy của cha tôi và tự hỏi rằng ai là người đã ảnh hưởng đến ông. Cho đến gần đây tôi mới khám phá ra người đó là ai. Alex Morrison, một thầy dạy golf nổi tiếng vào những năm 1930 và 1940. Ông đã viết cuốn sách Better Golf Without Practice (Tạm dịch: Chơi golf tốt hơn mà không cần luyện tập), nhưng có lẽ điều khiến ông nổi tiếng nhất là dạy cho Henry Picard. Picard thẳng giải Master năm 1938 và PGA Championship năm 1939, đồng thời cũng là thầy của Ben Hogan và Sam Snead. Đọc lướt qua cuốn sách của Morrison cũng giống như đọc lại một bản ghi chép về những gì mà cha tôi đã dạy cho tôi.
Bây giờ chúng tôi đang truyền đạt lại cho thế hệ chơi golf kế tiếp về tâm lý khi chơi golf đóng vai trò quan trọng như thế nào và những gì cha tôi biết. Chúng tôi sẽ mang điều đơn giản như Byron Nelson đã nói truyền đạt lại cho những golfer hiện đại. Nó cũng sẽ dễ như bạn ký tên thôi.